Chức cẩm hồi văn
Dịch nghĩa của Tô Kiều Ngân
Chàng vâng chiếu vua đi đồn trú nơi biên cương
Tiễn chàng qua cầu, đường xa thăm thẳm
Ngậm sầu, ngăn lệ, trao chàng mấy lời
Đừng quên tình này dù xa cách
Một ra đi tin tức đành vắng bặt
Phòng không của thiếp xuân về chẳng ấm
Dưới thềm hoa rêu đã phủ xanh
San hô màng trướng đầy bụi bám
Buổi ấy chia tay lòng khiếp hãi nhường bao
Lo làm sao cho gặp lại được chàng
Xin được làm ánh trăng nơi biển xanh
Xin được làm mây lạnh trên đầu núi
Mây lạnh năm năm còn thấy được mặt chàng
Trăng biển năm năm còn soi dấu biên cương (nơi chàng ở)
Bay đi bay lại còn đến được gần chàng
Dẫu ngàn vạn dặm vẫn có thể thấy nhau
Thăm thẳm đường xa, núi non cách trở
Giận chàng còn mãi làm người khách nơi biên tái
Buổi ấy xa nhau lá hoa lau úa vàng
Ai tin bây giờ hoa mai đã trắng xóa
Hoa nghiêng ngả gặp mùa xuân sớm
Nỗi niềm xuân xui khó nói ra
Thùy dương rụng lá cũng vì chàng
Hoa rơi đầy đất ai người quét
Trước sân cỏ xuân tỏa mùi thơm
Ôm đàn Tần Tranh ra phòng họa
Vì chàng đàn trọn khúc Giang Nam
Gửi gắm tình này về phương Bắc
Phương Bắc sông núi xa xôi thăm thẳm
Vạn dặm tin chàng dứt hẳn rồi
Vật trang sức trên gối, nước mắt em thấm áo
Áo thêu vàng, lụa vẽ hoa cũng từng chịu ủ ê
Ba xuân hồng nhạn kêu qua sông
Cũng giống nỗi đau đứt ruột của một người xa cách
Đàn chưa dứt mà lòng dứt trước
Oán kết rồi, đàn vẫn chưa rồi
Chàng nhớ em tình nặng như núi non
Em cũng nhớ chàng chẳng lúc nào khuây khỏa
Dệt bức gấm này cúi dâng Thiên tử
Xin cho chồng con được sớm trở về.
織錦回文
君承皇詔安邊戍,
送君送別河橋路。
含悲掩淚贈君言,
莫忘恩情便長去。
何期一去音信斷,
遣妾屏幃春不暖。
璚瑤階下碧苔生,
珊瑚帳裏紅塵滿。
此時到別每驚魂,
將心何托更逢君。
一心願作滄海月,
一心願作嶺頭雲。
嶺雲歲歲逢君面,
海月年年照得偏。
飛來飛去到君旁,
千里萬里遙相見。
迢迢路遠關山隔,
恨君塞外長為客。
去時送別蘆葉黃,
難悟已經柳花白。
百花散亂逢春早,
春意催人向誰道。
垂楊滿地為君攀,
落花滿地無人掃。
庭前春草真芬芳,
花得秦箏向蓋堂。
為君彈得江南曲,
附寄情深到朔方。
朔方迢迢山難越,
萬里音書長斷絕。
銀妝枕上淚沾衣,
金縷羅裳縫皆裂。
三春鴻雁渡江聲,
此時离人斷腸情。
箏弦未斷腸先斷,
怨結先成曲未成。
君今憶妾重如山,
妾亦思君不暫閒。
織將一板獻天子,
願訪而夫及早還。
(Tô Huệ)
0 comments:
Post a Comment